Tết Nguyên Đán là một nét văn hóa được du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc. Tuy nhiên với ý nghĩa nhân văn lớn lao của nó nên đã được du nhập và truyền lại cho đến ngày nay. Đây có thể nói là nét đặc trưng thể hiện phong tục người phương Đông. Không như người phương Tây, dịp tết Nguyên Đán của chúng ta kéo dài tới hơn 2 tuần. Đây là dịp lễ lớn nhất trong năm, khi mà mọi người bỏ qua một bên những khó khăn để về đoàn tụ với gia đình. Tại đây người ta có thể thoải mái đoàn viên trò chuyện cùng với mọi người trong gia đình mà không phải lo nghĩ chuyện thế sự.
Mục Lục
Tết Nguyên Đán được hiểu như thế nào?
“Tết” chính là “tiết”. Hai chữ “Nguyên Đán” có gốc chữ Hán; “nguyên” có nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai và “đán” là buổi sáng sớm. Cho nên đọc đúng phiên âm phải là “Tiết Nguyên Đán”. Tết Nguyên Đán được người Việt Nam gọi với cái tên rất thân thương “Tết Ta”; là để phân biệt với “Tết Tây” (Tết Dương lịch).
Do cách tính lịch âm của người Việt Nam có khác với Trung Quốc cho nên Tết Nguyên Đán của người Việt Nam không hoàn toàn trùng với Tết của người Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Quốc khác.
Vì Âm lịch là lịch theo chu kỳ vận hành của mặt trăng nên Tết Nguyên Đán muộn hơn Tết Dương lịch. Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của Âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên Đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19 tháng 2 Dương lịch mà thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 Dương lịch. Toàn bộ dịp Tết Nguyên Đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng).
Lịch sử hình thành Tết Nguyên Đán
Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ văn hoa Trung Quốc trong hơn 1000 năm Bắc thuộc; Tết Nguyên Đán cũng là một trong những nét văn hóa được du nhập trong thời điểm đó. Theo lịch sử Trung Quốc, nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế và thay đổi theo từng thời kỳ. Đời Tam Vương, nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng giêng, tức tháng Dần. Nhà Thương thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng chạp, làm tháng đầu năm. Nhà Chu ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý, tức tháng mười một, làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên quan niệm về ngày giờ “tạo thiên lập địa” như sau: giờ Tý thì có trời; giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày Tết khác nhau.
Đến thời Đông Chu, Khổng Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ 3 TCN), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng mười. Đến thời nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng giêng. Từ đó về sau, không còn triều đại nào thay đổi về tháng Tết nữa.
Đến đời Đông Phương Sóc, ông cho rằng ngày tạo thiên lập địa có thêm giống gà; ngày thứ hai có thêm chó, ngày thứ ba có thêm lợn, ngày thứ tư sinh dê; ngày thứ năm sinh trâu, ngày thứ sáu sinh ngựa; ngày thứ bảy sinh loài người và ngày thứ tám mới sinh ra ngũ cốc. Vì thế, ngày Tết thường được kể từ ngày Mồng một cho đến hết ngày mồng Bảy.
Ý nghĩa nhân văn ngày Tết
Tết Nguyên Đán không chỉ thể hiện sự giao giao cảm giữa trời đất và con người với thần linh trong quan niệm của người phương Đông. Mà thiêng liêng hơn cả đó chính là ngày đoàn viên của mọi gia đình. Mỗi khi Tết đến, dù làm bất cứ nghề gì; ở bất cứ nơi đâu đều mong được trở về sum họp dưới mái ấm gia đình trong 3 ngày Tết; được khấn vái trước bàn thờ tổ tiên; thăm lại ngôi nhà thờ, ngôi mộ, giếng nước, mảnh sân nhà;… được sống lại với những kỷ niệm đầy ắp yêu thương của tuổi thơ yêu dấu. “Về quê ăn Tết”, đó không phải là một khái niệm thông thường đi hay về; mà là một cuộc hành hương về với cội nguồn, nơi chôn rau cắt rốn.
Đánh dấu một khởi đầu mới
Bên cạnh đó, Tết Nguyên Đán còn được coi là ngày “làm mới”. Bởi, mọi người đều mong muốn đón một năm mới an lành; sung túc, thuận lợi trong cả năm và gác lại mọi điều không may mắn trong năm cũ. Do vậy, vào dịp Tết nhà nào cũng tất bật dọn dẹp, sắm sửa, trang hoàng. Đây cũng là dịp mọi người làm mới lại về phần tình cảm và tinh thần để mối liên hệ với người thân được gắn bó hơn, tinh thần thoải mái, tươi vui hơn.
Không những thế, Tết Nguyên Đán còn là dịp để tạ ơn. Con cái tạ ơn cha mẹ, cha mẹ tạ ơn ông bà, tổ tiên, nhân viên tạ ơn cấp chỉ huy. Ngược lại, lãnh đạo cũng cảm ơn nhân viên qua những buổi tiệc chiêu đãi hoặc quà thưởng để ăn Tết.
Đề xuất lịch nghỉ tết Nguyên Đán năm 2022
Đề xuất của Bộ Lao động, thương binh và xã hội hướng tới cán bộ; công chức, viên chức và người lao động của các cơ quan hành chính; sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, doanh nghiệp.
Cụ thể trong dự thảo, người lao động là công chức, viên chức có thể nghỉ liền 9 ngày liên tục; từ thứ bảy (ngày 29-1-2022) đến hết ngày chủ nhật (ngày 6-2-2022); tức là từ 27 tháng chạp năm Tân Sửu tới hết mùng 6 tháng giêng năm Nhâm Dần.
Bộ Lao động, thương binh và xã hội lý giải 9 ngày nghỉ này bao gồm 5 ngày nghỉ Tết theo Luật lao động 2019 và 4 ngày nghỉ theo lịch hàng tuần.
Dự thảo của Bộ Lao động, thương binh và xã hội nêu rõ: người lao động không phải là công chức hoặc viên chức sẽ được người sử dụng lao động bố trí lịch nghỉ Tết âm lịch theo điều kiện thực tế và lịch nghỉ đối với công chức, viên chức.
Phương án đưa ra là lựa chọn 1 ngày nghỉ trước Tết và 4 ngày nghỉ sau Tết hoặc nghỉ 2 ngày trước Tết và 3 ngày nghỉ sau Tết (đầu năm âm lịch).